Dự kiến trong tương lai, mỗi năm Việt Nam sẽ có khoảng 10,8 triệu tín chỉ carbon tự nguyện được cung cấp, kèm theo nhu cầu trao đổi, mua bán lớn. Việc hình thành thị trường carbon giúp nước ta nắm bắt được cơ hội trong việc giảm phát thải carbon một cách hiệu quả, tăng khả năng tương thích với các cơ chế định giá carbon quốc tế.
Tổng quan
Thị trường carbon Việt Nam dự kiến thí điểm từ năm 2025 đến năm 2027 và chính thức vận hành từ năm 2028. Thị trường carbon trong nước hoạt động theo cơ chế “mua bán giới hạn”, trong đó đối tượng tham gia chính là các cơ sở phát thải khí nhà kính (“GHG”). Những bên tham gia này tham gia vào các giao dịch liên quan đến việc trao đổi lượng khí nhà kính được giảm thiểu, thể hiện dưới hai hình thức: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính và Tín chỉ carbon. Hơn nữa, thị trường carbon và các yêu cầu tuân thủ liên quan của nó được cho là có tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở nhiều khía cạnh khác nhau. Ngoài ra, nó có tiềm năng tạo ra một con đường mới để tạo doanh thu, đặc biệt cho các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp xanh. Hơn nữa,
Việt Nam đã có những bước đi quan trọng nhằm thực hiện các cam kết theo Thỏa thuận Paris và Hội nghị COP 26 bằng việc ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm thực hiện các biện pháp giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Một khía cạnh quan trọng của nỗ lực này là việc thiết lập và tăng trưởng thị trường carbon trong nước. Phương hướng xây dựng thị trường này chủ yếu được nêu trong hai văn bản pháp luật quan trọng: Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 và Nghị định hướng dẫn số 06/2022/ND-CP.
Nhìn chung, thị trường carbon của Việt Nam tập trung vào ba yếu tố chính: đối tượng tham gia, đối tượng chịu sự điều chỉnh và cơ chế vận hành.
Những người tham gia
(i) Cơ sở phát thải bao gồm các cơ sở phát thải trong một số lĩnh vực cụ thể và các cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê phát thải.
(ii) Các tổ chức tham gia vào cơ chế trao đổi và bù đắp tín chỉ carbon trong nước và quốc tế cũng là những người tham gia vào thị trường carbon.
(iii) Các tổ chức, cá nhân có liên quan khác cũng là một phần của thị trường carbon.
Một cơ sở được coi là Cơ sở phát thải khi đáp ứng các tiêu chí nhất định. Ví dụ: nếu cơ sở có lượng phát thải khí nhà kính hàng năm từ 3000 tấn CO2 tương đương trở lên hoặc thuộc các loại sau:
(i) Các nhà máy nhiệt điện và cơ sở sản xuất công nghiệp có tổng mức tiêu thụ năng lượng hàng năm từ 1.000 tấn dầu tương đương (TOE) trở lên.
(ii) Doanh nghiệp vận tải hàng hóa có tổng mức tiêu thụ nhiên liệu hàng năm từ 1000 TOE trở lên.
(iii) Các tòa nhà thương mại có tổng mức tiêu thụ năng lượng hàng năm từ 1000 TOE trở lên.
(iv) Cơ sở xử lý chất thải rắn có công suất hoạt động từ 65.000 tấn/năm trở lên.
Ngoài ra, hai năm một lần, Thủ tướng Chính phủ sẽ cập nhật danh sách các ngành, cơ sở cụ thể phải kiểm kê KNK dựa trên các tiêu chí nêu trên, nhằm xác định rõ hơn các Cơ sở phát thải.
Đối tượng quy định
Thị trường carbon trao đổi các mục tiêu bao gồm giảm phát thải khí nhà kính. Lượng phát thải này được thể hiện dưới hai hình thức: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính và Tín chỉ carbon. Phát thải khí nhà kính bao gồm các loại khí trong khí quyển như carbon dioxide (CO2), metan (CH4) và oxit nitơ (N2O), cũng như các loại khí nhà kính có nồng độ thấp nhưng mạnh như hydrofluorocarbons (HFC), perfluorocarbons (PFC), lưu huỳnh hexafluoride (SF6) và nitơ triflorua (NF3). Hơn nữa, hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho biết lượng phát thải khí nhà kính cho phép mà một quốc gia, tổ chức hoặc cá nhân có thể phát thải trong một khoảng thời gian cụ thể. Ngoài ra, việc đo lường các hạn ngạch này được tính bằng tấn CO2 hoặc tương đương. Hơn nữa, họ thiết lập các giới hạn phát thải khí nhà kính để giảm thiểu tác động môi trường.
Tín dụng Carbon là chứng chỉ có thể giao dịch thương mại thể hiện quyền phát thải một tấn carbon dioxide (CO2) hoặc tương đương. Cụ thể, các chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù đắp cho phép mua lại Tín chỉ Carbon. Ngoài ra, có thể chuyển đổi khoản tín dụng này thành đơn vị thanh toán bù trừ Hạn ngạch phát thải khí nhà kính trên sàn giao dịch. Ngoài ra, điều quan trọng cần lưu ý là một (1) Tín chỉ Carbon tương đương với một (1) tấn CO2 tương đương.
Việc thực hiện thị trường carbon và tác động của nó đối với doanh nghiệp
Các chuyên gia cho rằng, việc thiết lập thị trường tín chỉ carbon là định hướng quan trọng để Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Việt Nam là thị trường phát triển tiềm năng trên thế giới, tuy nhiên, để huy động vốn FDI, doanh nghiệp và chuỗi cung ứng Việt Nam phải hướng tới một hướng xanh và bền vững. Theo xu hướng thực hiện mục tiêu Net Zero, nhu cầu tín dụng carbon tự nguyện trên thế giới ngày càng tăng cao trong thời gian gần đây và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Hầu hết thông qua hợp đồng mua trước, bên có nhu cầu sẽ đặt hàng để thực hiện các dự án tín chỉ carbon tại Việt Nam. Hiện tại, không có khoản tín dụng nào được phát hành để giao dịch trên sàn giao dịch.
Nghị định 06 đã vạch ra lộ trình phát triển thị trường carbon nội địa của Việt Nam.
Họ sẽ bắt đầu thực hiện trao đổi tín chỉ carbon thí điểm vào năm 2025. Đến cuối năm 2027, họ sẽ thiết lập các quy định về quản lý tín chỉ carbon, hạn ngạch phát thải khí nhà kính và trao đổi tín chỉ carbon. Từ năm 2028 trở đi, sàn trao đổi tín chỉ carbon sẽ chính thức hoạt động với các quy định nhằm kết nối thị trường trong nước với thị trường carbon khu vực và toàn cầu.
Các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có tín chỉ carbon từ các dự án xanh, dự đoán trước nhiều cơ hội phát sinh từ thị trường carbon. Nó sẽ tạo ra con đường tạo doanh thu thông qua việc kinh doanh Hạn ngạch phát thải khí nhà kính hoặc Tín dụng carbon. Khung pháp lý ổn định của Việt Nam có tiềm năng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, dẫn đến tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, nhiên liệu sạch và các ngành công nghiệp thân thiện với môi trường.
Tuy nhiên, việc hình thành thị trường carbon trong nước cũng đặt ra những thách thức cho doanh nghiệp. Nó sẽ hạn chế năng suất dựa trên hạn ngạch phát thải, tăng chi phí tuân thủ và gây áp lực lên chuyển đổi công nghệ. Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Phần kết luận
Trên thực tế, số lượng tín chỉ carbon ở Việt Nam cao hơn 40 triệu, bao gồm các loại hình như rừng, biển, năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng… đều tạo ra tín chỉ carbon. Hiện nay, lượng khí thải carbon ở Việt Nam cao hơn nhiều nước trên thế giới nên để giảm lượng khí thải, nhu cầu hấp thụ carbon ở Việt Nam cũng rất cao. Tại Việt Nam, thị trường carbon trong nước bao gồm các hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon có được từ cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Theo Luật Bảo vệ Môi trường 2020,
Thực tế là các nước, trong đó có Việt Nam, thực hiện giảm phát thải khí nhà kính phù hợp với các cam kết khí hậu trước đây và đặc biệt là mục tiêu giảm phát thải ròng về mức “0” vào năm 2050 theo thỏa thuận chung tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) lần thứ 26 đã thiết lập một thị trường carbon trong đó các quốc gia bán hoặc mua quyền phát thải vượt mức từ các quốc gia vượt quá hoặc không đạt mục tiêu đã cam kết.
Đội ngũ chuyên gia và nhân viên của Harley Miller luôn phấn đấu cung cấp các giải pháp tối ưu để mang lại sự hài lòng cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ pháp lý.
Công ty luật TNHH Harley Miller “HMLF”
Trụ sở: 412 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 05, Quận 3, TP Hồ Chí Minh.
Số điện thoại: 0937215585
Website: hmlf.vn Email: miller@hmlf.vn