spot_img

Những thắc mắc về khoản phụ cấp được tính để đóng bảo hiểm xã hội (Phần 2)

Hỏi: Công ty chúng tôi xây dựng hệ thống thang bảng lương từ năm 2010 với mức lương tối thiểu doanh nghiệp áp dụng là 1.350.000đ, chúng tôi lấy mức lương này nhân với hệ số cấp bậc ra lương cơ bản để đóng Bảo hiểm xã hội, nhưng năm 2015 mức lương tối thiểu do nhà nước quy định ở khu vực TP.HCM là 3.100.000đ, đối với lao động được qua đào tạo thì thêm 0.07 tức là 3.317.000đ. Với mức lương như vậy cơ quan chúng tôi có 3 người sau khi nhận mức lương tối thiểu doanh nghiệp áp dụng (1.350.000đ) với hệ số cấp bậc (1.7) bằng 2.970.000đ thấp hơn mức lương tối thiểu do doanh nghiệp áp dụng đối với người qua đào tạo là (3.317.000đ). Nên chúng tôi làm quyết định tăng lương người đó lên 3.317.000đ dù lương đó không có trong thang bảng lương doanh nghiệp để đóng BHXH (không phù hợp với cấp bậc nào trong thang bảng lương). Sau này chúng tôi có ký hợp đồng lao động với các nhân viên mới, chúng tôi ký hợp đồng lao động cũng là 3.317.000đ cũng không phân vào cấp bậc nào trong thang bảng lương và đóng BHXH số đó, nhưng tổng lương là 6.017.000đ và lương thực tế là 5.718.000đ, số còn lại lương cơ bản chúng tôi đưa vào phụ cấp năng suất và phụ cấp khác, như vậy có đúng luật không?

Trả lời:

-Theo Luật BHXH, người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH là mức tiền lương ghi trong HĐLĐ. Mức tiền lương này không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định và phải phù hợp với thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng theo quy định của pháp luật về lao động.

  • Từ ngày 01/01/2016, thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương và phụ cấp lương theo quy định của pháp luật về lao động.
  • Từ ngày 01/01/2018, thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về lao động.

Hỏi:

Công ty chúng tôi ký Quyết định bổ nhiệm một số người lao động bình thường vào vị trí cán bộ quản lý, mức trợ cấp chức vụ quản lý là 2.500.000 đồng/người/tháng. Tuy nhiên trên quyết định lại ghi là: “Mức trợ cấp này không tính vào mức lương chính để đóng BHXH, BHYT, BHTN”. Công ty của tôi ban hành quyết định như vậy có đúng không?

Năm 2016 Công ty tôi nộp các khoản Bảo hiểm bắt buộc cho người lao động không cộng mức trợ cấp này vào mức lương chính để tính đóng, như vậy có đúng không?

Trả lời:

-Căn cứ Khoản 1 Điều 30 của Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH quy định phụ cấp lương là các khoản phụ cấp lương để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ như phụ cấp chức vụ, chức danh; phụ cấp trách nhiệm; phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; phụ cấp thâm niên; phụ cấp khu vực; phụ cấp lưu động; phụ cấp thu hút và các phụ cấp có tính chất tương tự.

-Như vậy, trợ cấp chức vụ quản lý mà công ty chi trả là phụ cấp chức vụ thuộc quy định này, phải tính đóng BHXH, BHYT, BHTN.

Hỏi: Công ty tôi trả lương cho người lao động bao gồm: Lương cơ bản; phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm; phụ cấp năng suất; phụ cấp nặng nhọc; phụ cấp thâm niên; và trợ cấp chuyên cần.

Tôi xin hỏi, từ năm 2016, mức lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc của công ty tôi gồm những khoản nào trong số các mục trên? Theo văn bản nào hướng dẫn?

Trả lời:

Căn cứ Khoản 1 Điều 30 của Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH quy định phụ cấp lương là các khoản phụ cấp lương để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ như phụ cấp chức vụ, chức danh; phụ cấp trách nhiệm; phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; phụ cấp thâm niên; phụ cấp khu vực; phụ cấp lưu động; phụ cấp thu hút và các phụ cấp có tính chất tương tự. Như vậy, trợ cấp chức vụ quản lý mà công ty chi trả là phụ cấp chức vụ thuộc quy định này, phải tính đóng BHXH, BHYT, BHTN.

Hỏi:Công ty chúng tôi là Công ty TNHH 02 thành viên. Công ty thuộc dạng siêu nhỏ, chỉ có 3 lao động.

Giám đốc công ty vừa là chủ tịch HĐTV (cũng là 1 trong 2 thành viên sáng lập) không có hưởng lương nhưng được hưởng phụ cấp công tác từ 3-5 triệu đồng/tháng. (Mức phụ cấp công tác này được căn cứ vào Biên bản họp do HĐTV quyết định vào đầu mỗi năm). Trong bảng lương chỉ ghi vào cột phụ cấp công tác, cột lương ghi 0. Khoản phụ cấp này kế toán có hạch toán đưa vào chi phí quản lý doanh nghiệp. Thời gian áp dụng từ năm 2009 đến hết năm 2015. Trong bảng khai trình tình hình sử dụng lao động năm 2009 đã có khai trình tên và chức danh của giám đốc.

Do không biết rõ về luật BHXH, theo cách hiểu của mình, chúng tôi nghĩ giám đốc chỉ hưởng phụ cấp công tác, không có hưởng lương nên trong thời gian này (2009-2015), công ty chúng tôi không nộp BHXH, BHYT, BHTN cho giám đốc như đã nêu trên thì có vi phạm luật BHXH, BHYT, BHTN không? Nếu có vi phạm thì vi phạm ở điều khoản nào của luật?

Trả lời:

-Căn cứ Điểm 1.5, Khoản 1, Điều 4, Quyết định 959/QĐ-BHXH ngày 09/9/2015 về việc ban hành quy định quản lý thu BHXH, BHYT, BH thất nghiệp; quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT quy định đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương.

-Thực hiện quy định trên, trường hợp giám đốc công ty vừa là thành viên sáng lập, vừa là chủ tịch hội đồng thành viên không hưởng lương mà chỉ hưởng phụ cấp công tác thì không thuộc đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BH thất nghiệp bắt buộc.

Hỏi:Công ty tôi có tham gia bảo hiểm xã hội đầy đủ, tuy nhiên sắp đến theo cuộc họp Giám đốc các nhân viên công ty nhận lương theo tỷ lệ doanh thu (lương năng suất), khoản này không cố định hàng tháng & luôn biến động tùy thuộc vào doanh số bán ra. Vậy ngoài khoản lương cố định hàng tháng đã tham gia bảo hiểm thì khoản lương năng suất này có phải tham gia & bắt buộc nộp bảo hiểm – vì công ty nhận thấy đây không phải là khoản cố định hàng tháng và thuê nhân lực để thực hiện theo dõi tính toán khai báo bảo hiểm rất khó khăn.

Trả lời:

-Căn cứ Điều 30 Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2015 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định mức tiền lương đóng BHXH, BHYT, BHTN theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định từ 01/01/2016 đến 31/12/2017 là mức lương và các khoản phụ cấp lương ghi trong hợp đồng lao động.

-Phụ cấp lương là các khoản phụ cấp để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ như phụ cấp chức vụ, chức danh; phụ cấp trách nhiệm; phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; phụ cấp thâm niên; phụ cấp khu vực; phụ cấp lưu động; phụ cấp thu hút và các phụ cấp có tính chất tương tự.

-Các khoản chế độ và phúc lợi khác như tiền thưởng sáng kiến; tiền ăn giữa ca; các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ; hỗ trợ khi người lao động có thân nhân bị chết, người lao động có người thân kết hôn, sinh nhật của người lao động, trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác ghi thành mục riêng trong hợp đồng lao động theo khoản 11 Điều 4 của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động thì không đóng BHXH.

Related Articles